Nghiên cứu, ban hội thẩm và hội nghị UFO học

Dự án Sign, Dự án Grudge (Mỹ, 1947–1949)

Nathan F. Twining
Bài chi tiết: Dự án Sign

Cuộc điều tra chính thức đầu tiên về UFO của USAF là Dự án Sign (1947–1949) và kế nhiệm là Dự án Grudge (1949). Hàng trăm trường hợp chứng kiến được kiểm tra, phần lớn trong số chúng có một lời giải thích trần tục.[58] Một số trường hợp chứng kiến được phân loại là đáng tin cậy nhưng không thể giải thích được, và trong những trường hợp này khả năng một chiếc máy bay tối tân không xác định không thể loại trừ được.[59]Các bản ghi nhớ ban đầu của dự án lấy câu hỏi UFO một cách nghiêm túc. Sau khi khảo sát 16 báo cáo ban đầu, Trung tá George D. Garrett ước tính rằng những trường hợp này không phải là ảo giác hay sự cường điệu của các hiện tượng tự nhiên.[60] Trung tướng Nathan F. Twining bày tỏ cùng một ước tính trong một bức thư gửi cho Chuẩn tướng Schulgen, và thúc giục một cuộc điều tra phối hợp của Không quân và các cơ quan chính phủ khác.[61] Bản ghi nhớ của Twining đã dẫn đến việc thành lập Dự án Sign vào cuối năm 1947. Vào mùa hè năm 1948, sự thẩm định tình báo đầu tiên của Sign (Estimate of the Situation) kết luận rằng một số báo cáo UFO có nguồn gốc ngoài trái đất. Sự từ chối bản ước tính của Tham mưu trưởng USAF Tướng Hoyt Vandenberg dẫn đến việc giải thể Sign và sự hình thành của Dự án Grudge.

Flying Saucer Working Party (Anh, 1950–1951)

Bộ Quốc phòng của Vương quốc Anh, được báo động bởi các báo cáo về máy bay không xác định có vẻ tối tân, theo gương của quân đội Mỹ bằng cách tiến hành nghiên cứu riêng về UFO vào năm 1950.[62] Một nhóm nghiên cứu được hình thành dựa trên sự giới thiệu của nhà hóa học Henry Tizard, và tham gia vào công việc tương tự như "Dự án Sign".[62] Sau chưa đầy một năm, ban giám đốc, được đặt tên là "Tổ Công tác Đĩa bay" (Flying Saucer Working Party viết tắt FSWP), đưa ra kết luận rằng hầu hết các quan sát đều là trường hợp nhận diện nhầm lẫn, ảo ảnh quang học, ảo tưởng tâm lý hoặc lừa gạt và khuyến cáo không điều tra thêm về hiện tượng này nên được thực hiện.[63] Năm 1952, ban giám đốc thông báo cho Thủ tướng Winston Churchill, sau khi ông dò hỏi về UFO, rằng họ đã không tìm thấy bằng chứng về tàu vũ trụ ngoài hành tinh.[62] Hồ sơ FSWP đã được phân loại trong năm mươi năm và được phát hành cho công chúng Anh vào năm 2001.[62]

Dự án Magnet, Dự án Second Story (Canada, 1950–1954)

Bài chi tiết: Dự án Magnet

Dự án Magnet, dưới sự lãnh đạo của kỹ sư phát thanh cao cấp Wilbert B. Smith từ Sở Giao thông vận tải, có mục tiêu nghiên cứu hiện tượng từ tính, đặc biệt là từ trường Trái Đất, như một phương pháp đẩy tiềm năng dành cho xe cộ.[64][65] Smith tin rằng UFO đang sử dụng phương pháp này để đạt được chuyến bay.[65] Tuy nhiên, báo cáo cuối cùng của dự án không bao gồm đề cập đến từ trường Trái Đất.[66] Dự án đã thảo luận hai mươi lăm trường hợp nhìn thấy UFO được báo cáo trong năm 1952, và đưa ra kết luận với ý kiến rằng "phương tiện không gian ngoài hành tinh" là có thật.[66]

Cùng với nhóm Smith, một ủy ban song song chỉ dành riêng cho việc xử lý các báo cáo "đĩa bay" được thành lập.[67] Ủy ban này, được gọi là Dự án Second Story, được tài trợ bởi Hội đồng Nghiên cứu Quốc phòng, với mục đích chính là thu thập, lập danh mục và đối chiếu dữ liệu từ các báo cáo vụ việc về UFO.[67] Ủy ban dường như đã giải thể sau năm cuộc họp, vì cả nhóm cho rằng tài liệu được thu thập không phù hợp cho việc phân tích khoa học.[68]

Dự án Blue Book (Mỹ, 1951–1969)

Bài chi tiết: Dự án Blue Book

Như một sự tiếp nối của Dự án Sign và Dự án Grudge vào năm 1951, USAF đã khởi động Dự án Blue Book, do Đại úy Edward J. Ruppelt đứng đầu. Dưới thời Ruppelt, việc thu thập và điều tra các trường hợp UFO trở nên có hệ thống hơn.[69] Dự án đã cho lưu hành một loạt các báo cáo tình trạng, được phân loại vào tháng 9 năm 1960 và được công bố vào năm 1968.[70] Dự án Blue Book đã chấm dứt vào tháng 12 năm 1969, sau báo cáo của Ủy ban Condon. Cho đến lúc đó, 12.618 trường hợp đã được nghiên cứu, phần lớn trong số đó đều được giải thích bằng các cách thức thông thường. 701 trường hợp, khoảng 6%, vẫn còn "chưa xác định".[71] Chính thức, USAF kết luận từ dự án rằng các hiện tượng được điều tra chẳng liên quan đến an ninh quốc gia, và rằng không có bằng chứng nào cho thấy rằng "không xác định" được gây ra bởi phi thuyền ngoài hành tinh.[71]

Báo cáo Đặc biệt số 14 Dự án Blue Book (Mỹ, 1952–1954)

Lối vào chính của Viện Tưởng niệm Battelle ở Columbus, Ohio

Ruppelt đã ký hợp đồng với một nhóm các nhà khoa học từ Viện Tưởng niệm Battelle để thẩm định 3.200 trường hợp UFO ban đầu do Dự án Blue Book thu thập được. Họ tiến hành phân tích, chủ yếu là thống kê, về chủ đề này trong gần hai năm. Nghiên cứu kết luận rằng dữ liệu càng đầy đủ và báo cáo càng tốt, càng có nhiều khả năng báo cáo sẽ được phân loại là "không xác định".[72][73] Các báo cáo được phân loại là "không xác định" chiếm 21,5% tổng số (33% các báo cáo chất lượng cao nhất) và yêu cầu sự nhất trí giữa bốn nhà khoa học dự án, trong khi "xác định" chỉ cần hai trong số bốn nhà phân tích đồng thuận. Một phân tích thống kê sáu đặc điểm, chẳng hạn như tốc độ và thời gian chứng kiến, tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê trong ít nhất bốn trong sáu loại giữa trường hợp xác định và không xác định. Tuy nhiên, báo cáo nhấn mạnh tính chủ quan của dữ liệu, và nói rằng các kết luận rút ra từ nghiên cứu này không dựa trên các sự kiện, mà dựa trên các quan sát chủ quan và ước tính của cá nhân.[74] Hơn nữa, tóm tắt báo cáo và kết luận nói rằng "những thứ chưa biết rõ" không phải là thứ gì đó vượt xa công nghệ của thời đại, và gần như chắc chắn không phải là "những chiếc đĩa bay".[69]

Ban Robertson (Mỹ, 1953)

Bài chi tiết: Ban Robertson

Trước khi báo cáo cuối cùng của Battelle được công bố, Cơ quan Tình báo Trung ương (CIA) đã bày tỏ sự quan tâm đến UFO như một vấn đề an ninh quốc gia, và thành lập một ủy ban để kiểm tra dữ liệu UFO hiện có.[69] Ban này, do nhà toán học và vật lý Howard P. Robertson đứng đầu, họp mặt từ ngày 14 đến 17 tháng 1 năm 1953.[8] Nó kết luận một cách nhất trí rằng việc nhìn thấy UFO không đe dọa trực tiếp đến an ninh quốc gia, nhưng lại phát hiện ra rằng việc tiếp tục nhấn mạnh vào báo cáo UFO có thể đe dọa các chức năng của chính phủ bằng cách tạo ra các kênh giao tiếp làm tắc nghẽn các báo cáo không liên quan và gồm cả hội chứng rối loạn phân ly tập thể.[8] Ngoài ra, ban còn lo ngại rằng các quốc gia thù địch với nước Mỹ có thể sử dụng hiện tượng UFO để phá vỡ hoạt động phòng không.[8] Nhằm giải quyết những vấn đề này, ban tuyên bố rằng một chính sách giáo dục công lập về việc thiếu bằng chứng đằng sau UFO là cần thiết, được thực hiện thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng và trường học, trong số những cái khác.[8] Nó cũng khuyến khích việc theo dõi các nhóm UFO tư nhân đối với các hoạt động vạch trần.[8]

Các khuyến nghị của Ban Roberson được thực hiện một phần thông qua một loạt các quy định quân sự đặc biệt.[75] Bản thông cáo Lục-Hải-Không quân tháng 12 năm 1953 Joint-Army-Navy-Air Force Publication 146 (JANAP 146) đã công bố các trường hợp UFO là tội phạm theo Đạo luật Gián điệp.[75] The Air Force Regulation 200-2 (AFR 200-2) revision of 1954 made all UFO sightings reported to the USAF classified.[75] Tu chính án AFR 200-2 tháng 2 năm 1958 cho phép quân đội chuyển giao cho FBI tên gọi của những người "bất hợp pháp hoặc lừa đảo" đưa vấn đề UFO hướng đến sự chú ý của công chúng.[75]

Ủy ban Condon (Mỹ, 1966–1968)

Edward U. Condon
Bài chi tiết: Ủy ban Condon

Sau các khuyến nghị của Ban Robertson, USAF muốn chấm dứt sự tham gia vào đề tài UFO, và chuyển giao Dự án Blue Book cho một cơ quan khác.[76] Vào tháng 10 năm 1966, USAF đã ký hợp đồng với Đại học Colorado, dưới sự lãnh đạo của nhà vật lý Edward U. Condon, với số tiền 325.000 đô la để tiến hành điều tra mang tính khoa học nhiều hơn về các trường hợp UFO và đưa ra những khuyến cáo về tương lai của dự án.[8][76]Ủy ban đã xem xét chín mươi mốt trường hợp UFO, trong đó 30% không thể xác định được.[72] Báo cáo kết luận rằng không có "bằng chứng trực tiếp" rằng UFO là tàu vũ trụ ngoài hành tinh,[72] rằng công việc nghiên cứu UFO từ hai mươi mốt năm qua đã không đóng góp chút gì cho kiến thức khoa học, và nghiên cứu sâu hơn không chứng minh được gì nữa.[77] Theo kết quả trực tiếp của báo cáo Condon, Dự án Blue Book đã chấm dứt vào tháng 12 năm 1969.[72] Tuy nhiên, nhiều nhà nghiên cứu UFO không hài lòng với báo cáo Condon, và coi đó là sự che đậy từ phía chính phủ.[8]

Hồ sơ Tập đoàn RAND (Mỹ, 1968)

Tập đoàn RAND đã làm ra một tài liệu nội bộ ngắn có tiêu đề "UFOs: What to Do?", xuất bản vào tháng 11 năm 1968.[78] Tài liệu này đưa ra một bản tóm tắt lịch sử về hiện tượng UFO, đã nói ngắn gọn về các vấn đề liên quan đến sự sống ngoài trái đất và du hành liên sao, trình bày một vài nghiên cứu và thảo luận nội dung điển hình về hiện tượng UFO, xem xét các giả thuyết, và kết luận với một khuyến cáo nhằm tổ chức một cơ quan tiếp nhận báo cáo UFO làm trọng tâm và tiến hành nghiên cứu thêm về hiện tượng này.[78]

Dự án Identification (Mỹ, 1973–1980)

Năm 1973, một làn sóng chứng kiến UFO ở đông nam Missouri đã thúc đẩy Harley D. Rutledge, giáo sư vật lý tại Đại học Missouri, phải tiến hành một cuộc điều tra hiện trường rộng rãi về hiện tượng này.[79] Các phát hiện đã được công bố trong cuốn sách Project Identification: the first scientific field study of UFO phenomena (Dự án Nhận dạng: nghiên cứu thực địa khoa học đầu tiên về hiện tượng UFO).[80] Mặc dù quan tâm cụ thể đến việc mô tả hiện tượng trên không không xác định, trái ngược với việc nhận dạng chúng, cuốn sách chỉ đề cấp đến trí thông minh giả định của các vật thể nhìn thấy được.[81] Kết quả nghiên cứu của Rutledge đã không được công bố trên bất kỳ tạp chí chính thống tầm cỡ hoặc hội nghị hay chuyên đề khoa học nào khác.[79]

Nghiên cứu của GEPAN, SERPA & GEIPAN (Pháp, 1977–nay)

Bài chi tiết: GEIPAN

Năm 1977, Tổng giám đốc Cơ quan Vũ trụ Pháp CNES đã lập ra một đơn vị để ghi chép lại các báo cáo về UFO.[82] Đơn vị này ban đầu được gọi là Groupe d’Etudes des Phénomènes Aérospatiaux Non identifiés (GEPAN), đổi tên vào năm 1988 thành Service d'expertise de rentrée atmosphérique Phenom (SERPA) và vào năm 2005 là Groupe d'études et d'informations sur les phénomènes aérospatiaux non identifiés (GEIPAN).[82]

GEIPAN đã tìm thấy một giải thích trần tục cho phần lớn các trường hợp được ghi lại, nhưng vào năm 2007, sau 30 năm điều tra, 1.600 trường hợp, chiếm khoảng 28% tổng số trường hợp, vẫn chưa rõ nguyên nhân "bất chấp những lời kể chính xác của nhân chứng và bằng chứng chất lượng tốt được thu hồi từ hiện trường" và được phân loại là "Loại D".[82] Vào tháng 4 năm 2010, thống kê của GEIPAN cho biết 23% tất cả các trường hợp đều thuộc Loại D.[83] Tuy nhiên, Jean-Jacques Velasco, người đứng đầu SEPRA từ năm 1983 đến năm 2004, đã viết một cuốn sách năm 2004 cho rằng 13,5% trong số 5.800 trường hợp được SEPRA nghiên cứu đã bị loại bỏ mà không có bất kỳ lời giải thích hợp lý nào và nói rằng UFO có nguồn gốc ngoài Trái Đất.[84][85]

Liên Hiệp Quốc (1977–1979)

Nhờ vận động hành lang của Eric Gairy, Thủ tướng Grenada, Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc đã giải quyết vấn đề UFO vào cuối những năm 1970.[86] Vào ngày 14 tháng 7 năm 1978, một ban hội thẩm, với Gordon Cooper, J. Allen Hynek và Jacques Vallée trong số các thành viên, đã tổ chức một buổi điều trần để thông báo cho Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc Kurt Waldheim về vấn đề này.[87] Kết quả của cuộc họp này, Liên Hiệp Quốc đã thông qua các quyết định A/DEC/32/424 và A/DEC/33/426, kêu gọi "thành lập một cơ quan hay một ban trong Liên Hiệp Quốc chuyên thực hiện, điều phối và phát tán kết quả nghiên cứu về vật thể bay không xác định cũng như hiện tượng liên quan".[88][89][90]

Dự án Hessdalen/Dự án EMBLA (Na Uy, 1983–nay/Ý 1999–2004)

Bài chi tiết: Ánh sáng Hessdalen

Từ năm 1981, trong một khu vực gần HessdalenNa Uy, các vật thể bay không xác định đã được quan sát phổ biến. Mọi người gọi đó là hiện tượng Hessdalen đã hai lần là chủ đề của nghiên cứu thực địa khoa học: Dự án Hessdalen (1983–1985, 1995–) nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Viện Nghiên cứu Quốc phòng Na Uy, Đại học Oslo, và Đại học Bergen, trong khi Dự án EMBLA (1999–2004) là một nhóm các nhà khoa học Ý dưới sự lãnh đạo của Tiến sĩ Massimo Teodorani từ Istituto di Radioastronomia di Bologna.

Cả hai nghiên cứu đều xác nhận sự hiện diện của hiện tượng này và có thể ghi lại bằng camera và các thiết bị kỹ thuật khác nhau như radar, laser và hồng ngoại.[91][92] Nguồn gốc và bản chất của ánh sáng vẫn chưa rõ ràng.[93][94] Các nhà nghiên cứu từ Dự án EMBLA đã suy đoán rằng khả năng plasma trong khí quyển là nguồn gốc của hiện tượng này.[95]

Dự án Condign (Anh, 1996–2000)

Bài chi tiết: Dự án Condign

Bộ Quốc phòng Anh (MoD) vào năm 2006 đã xuất bản "Scientific & Technical Memorandum 55/2/00a" (Bản ghi nhớ Khoa học & Kỹ thuật 55/2/00a) của báo cáo bốn tập, dài 460 trang có tựa đề Unidentified Aerial Phenomena in the UK Air Defence Region (Hiện tượng trên không không xác định ở khu vực phòng không nước Anh), dựa trên nghiên cứu của DI55 (một bộ phận của Ban Tình báo Khoa học và Kỹ thuật thuộc Bộ Tham mưu Tình báo Quốc phòng) có mật danh Dự án Condign.[96] Mục đích nhằm thảo luận về các báo cáo UFO của Anh nhận được từ năm 1959 đến 1997.

Bản báo cáo khẳng định rằng UFO là một hiện tượng có thực,[97] nhưng chỉ ra rằng chúng không có mối đe dọa đối với quốc phòng.[98] Báo cáo tiếp tục tuyên bố rằng không có bằng chứng cho thấy hiện tượng UFO là do sự xâm nhập của nguồn gốc trí thông minh, hoặc bất kỳ UFO nào bao gồm các vật thể rắn có thể tạo ra một mối nguy hiểm va chạm.[99] Mặc dù nghiên cứu thừa nhận là không thể giải thích tất cả các trường hợp UFO được phân tích một cách chắc chắn, nó khuyến cáo rằng bộ phận DI55 nên ngừng theo dõi các báo cáo UFO, vì chúng không cung cấp thông tin hữu ích cho Cơ quan Tình báo Quốc phòng.[100] Báo cáo kết luận rằng một tỷ lệ nhỏ các vụ chứng kiến không thể giải thích dễ dàng là do hiện tượng plasma trong khí quyển tương tự như sét hòn; Các trường năng lượng từ và năng lượng khác được tạo ra bởi những "cơ cấu plasma nổi" này chịu trách nhiệm cho sự xuất hiện của cái gọi là những "phi thuyền hình tam giác đen" cũng như có các hiệu ứng gây ảo giác trên tâm trí con người, gây ra những trải nghiệm các cuộc gặp gỡ cự ly gần (Close Encounters).

Báo cáo Ban Sturrock (Mỹ, 1997)

Từ ngày 29 tháng 9 đến ngày 4 tháng 10 năm 1997, một hội thảo kiểm tra các sự kiện UFO chọn lọc đã diễn ra tại Tarrytown, New York. Cuộc họp được bắt đầu dưới sự chủ trì của Peter A. Sturrock, người đã xem xét báo cáo Condon và nhận thấy chưa được hài lòng với bản báo cáo này.[101] Ban xét duyệt quốc tế bao gồm chín nhà khoa học vật lý, đứng ra trả lời cho tám nhà điều tra báo cáo UFO, những người được yêu cầu trình bày dữ liệu mạnh nhất của họ.[102] Báo cáo cuối cùng của hội thảo được xuất bản dưới tựa đề "Physical Evidence Related to UFO Reports" (Bằng chứng vật lý liên quan đến các báo cáo UFO) trong Journal of Scientific Exploration (Tạp chí Khám phá Khoa học) vào năm 1998.[103] Nghiên cứu kết luận rằng các trường hợp nghiên cứu không có bằng chứng rõ ràng cho sự hiện diện của hiện tượng vật lý không xác định hoặc cho trí thông minh ngoài Trái Đất,[104] nhưng cho rằng việc nghiên cứu liên tục về các trường hợp UFO có thể chứa đựng giá trị khoa học.[105]

Báo cáo COMETA (Pháp, 1999)

COMETA (Comité d'Études Approfondies, "Ủy ban nghiên cứu chuyên sâu") là một nhóm tư nhân người Pháp, chủ yếu gồm các cá nhân cấp cao của Bộ Quốc phòng Pháp. Năm 1999, nhóm đã xuất bản một báo cáo chín mươi trang có tên "Les OVNI et la défense: à quoi doit-on se préparer?" ("UFO và Quốc phòng: Chúng ta nên chuẩn bị gì?").[106] Báo cáo phân tích các trường hợp UFO khác nhau và kết luận rằng UFO là các vật thể bay thực sự, phức tạp và giả thuyết ngoài trái đất có xác suất cao để giải thích đúng cho hiện tượng UFO.[107] Nghiên cứu khuyến cáo rằng chính phủ Pháp nên điều chỉnh theo thực tế của hiện tượng này và tiến hành nghiên cứu sâu hơn.[108] Nhà hoài nghi Claude Maugé đã phê phán COMETA vì không đủ năng lực nghiên cứu, và tuyên bố rằng bản báo cáo đã cố gắng tự trình bày như một tài liệu chính thức của Pháp, khi thực tế nó được một nhóm tư nhân xuất bản.[109]

Họp báo "Dự án Disclosure" (Mỹ, 2001)

Steven M. Greer
Bài chi tiết: Dự án Disclosure

Vào ngày 9 tháng 5 năm 2001, hai mươi nhân viên chính phủ từ các tổ chức quân sự và dân sự đã nói về những trải nghiệm nghiệm của họ về UFO và tính bảo mật UFO tại Câu lạc bộ Báo chí Quốc giaWashington D.C..[110] Cuộc họp báo được khởi xướng bởi Steven M. Greer, người sáng lập Dự án Disclosure, với mục đích tiết lộ bí mật UFO đầy khả nghi của chính phủ.[111] Mục đích của cuộc họp báo là gây áp lực công khai thông qua các phương tiện truyền thông để có được một buổi điều trần trước Quốc hội Hoa Kỳ về vấn đề này.[112] Dù hãng truyền thông lớn của Mỹ đã đưa tin về buổi họp báo này,[113] sự quan tâm nhanh chóng giảm xuống, và không có phiên điều trần nào được đưa ra.

Họp báo Fife Symington (Mỹ, 2007)

Vào ngày 12 tháng 11 năm 2007, một cuộc họp báo, dưới sự chủ trì của cựu Thống đốc bang Arizona Fife Symington, được tổ chức tại Câu lạc bộ Báo chí Quốc gia ở Washington D.C.[114] Mười chín cựu phi công và các quan chức quân sự và dân sự đã nói về những trải nghiệm của họ với UFO, yêu cầu chính phủ Mỹ phải tiến hành một cuộc điều tra mới về hiện tượng này.[115]